Thứ Sáu, 24 tháng 9, 2021

SỐNG TÌNH NGƯỜI - TRUYỀN KỲ TRẦU CAU

SỐNG TÌNH NGƯỜI - TRUYỀN KỲ TRẦU CAU

NỀN TẢNG TƯƠNG QUAN GIỮA NGƯỜI VÀ NGƯỜI

1. DẪN NHẬP
2. TRUYỀN KỲ TRẦU CAU
3. GIẢI THÍCH TẬP TỤC
4. TÌNH GIA ĐÌNH
5. BÀI HỌC TÌNH NGƯỜI
6. TÌNH NGƯỜI TRONG VĂN HÓA VIỆT
7. SỰ TÍCH ÔNG TÁO
8. TRUYỀN KỲ TRẦU CAU VÀ Một Số VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
9. TÓM LƯỢC VÀ SƠ ĐỒ

 1. DẪN NHẬP

Truyền kỳ TRẦU CAU khởi đầu bằng việc giới thiệu hai Anh Em sinh đôi, giống nhau như đúc. Người Anh lấy Vợ, người Em bỏ đi. Họ đi tìm nhau rồi chết bên nhau, và hóa thành Vôi, Cau, Trầu.

Hai Anh Em là hai Người từ Bọc Mẹ Trăm Con của Truyền kỳ Tiên Rồng. Họ sinh đôi, vì được sinh ra cùng một lần, trong Một Bọc. Họ được rút riêng ra để ứng dụng vào cuộc sống thực tại.

Khi người Anh lấy Vợ cũng là lúc phát sinh những xung khắc thực tế của hai mối tương quan Anh-Em và Vợ-Chồng.

Truyền kỳ nêu phương thức giải quyết ổn thoả giữa hai mối tương quan và xác quyết quan niệm sống của Văn hóa Việt Nam.

Với Truyền kỳ Trầu Cau, Tổ Tiên đã đặt những Tiêu chí để Sống Tình Người làm Nền Tảng cho mọi Tương Quan giữa Con Người và Con Người.

Đây cũng là nền móng căn cội của một Xã Hội thanh bình hạnh phúc đích thực.

*     *     *     *

2. TRUYỀN KỲ TRẦU CAU

Thời Hùng, có hai anh em sinh đôi, giống nhau như đúc, thương nhau rất mực, và không bao giờ lìa nhau.

Khi khôn lớn, họ gặp một cô gái, và người anh cưới cô gái đó làm vợ.

Vì hai anh em giống nhau như đúc, nên một hôm người chị dâu lầm tưởng người em là chồng mình, và tỏ ý săn sóc.

Sợ gây hiểu lầm làm hại gia đình anh, người em bỏ nhà ra đi. Khi chết, chàng hóa thành đá vôi.

Người anh không thấy em về, nên đi tìm đến kiệt sức, dựa vô viên đá vôi mà chết, và hóa thành cây cau.

Người vợ chờ chồng không thấy, cũng đi tìm. Cuối cùng, nàng ngồi dựa gốc cau mà chết, và hóa ra dây trầu.

Trầu Cau Vôi nhai chung thành màu đỏ, với mùi vị thơm ngon.

Vua Hùng truyền dân ta ăn trầu cau là để luôn ghi nhớ sự tích nầy. Từ đó trầu cau trở thành phẩm vật của mọi nghi lễ.

*     *     *     *

3. GIẢI THÍCH TẬP TỤC

3.1 Tục Ăn Trầu

Trước đây, nhiều người cho rằng sự tích trên chỉ là chuyện hoang đường để giải thích tục ăn trầu ở nước ta. Làm sao có thể có chuyện người chết hóa thành đá, thành cây ? Việc đi tìm nhau để rồi cùng tới một nơi, gục chết bên nhau, và mỗi người hóa thành một thứ, lại là những trùng hợp khó tin.

Lại nữa, việc đặt ra chuyện tích để giải thích tập tục là sự kiện rất thông thường ở thời xưa. Không riêng gì người Việt Nam mà nhiều giống dân khác cũng có tục ăn trầu, và họ cũng có truyền thuyết về trầu cau. Như vậy, tích trầu cau của ta cũng không có gì là đặc biệt.

*     *

3.2 Quan Trọng Đặc Biệt

Tuy nhiên, Truyền kỳ Trầu Cau bắt nguồn từ thời các Vua Hùng, và được phổ biến rộng rãi trong đại chúng qua suốt mấy ngàn năm.

Lại nữa, tục ăn trầu không phải chỉ là một thói quen bình thường, mà là một tập tục có tầm quan trọng đặc biệt trong nếp sống của dân Việt Nam.

Trong suốt mấy ngàn năm, trầu cau không những thông dụng một cách cưỡng bách, mà còn được đặt lên bàn thờ, và trở thành phẩm vật không thể thiếu trong bất cứ nghi thức hay giao tế nào.

Từ những lễ nghi quan trọng nhất như tế tự, tết lễ, cưới hỏi... đến thông thường và phổ quát như để bắt đầu cuộc đối thoại giữa hai người vừa gặp nhau... sự hiện diện của trầu cau luôn luôn là cần thiết. Miếng trầu là đầu câu chuyện.

Trầu cau đã có địa vị đặc biệt như vậy, nên sự tích giải thích tục ăn trầu không thể chỉ là một chuyện không đâu, mà trái lại, phải mang nhiều ẩn ý văn hóa thâm thúy khác thường.

*     *     *     *

4. TÌNH GIA ĐÌNH

4.1 Hai Mối Tương Quan

a. Tương quan Anh - Em

Sự tích khởi đầu bằng việc giới thiệu hai anh em sinh đôi, giống nhau như đúc, thương nhau rất mực, và không hề lìa nhau.

Tất cả những chi tiết đó đều nhắc nhớ Truyền kỳ Tiên Rồng, với biểu tượng Trăm Anh Em được Mẹ Tiên Cha Rồng sinh ra cùng một lần, trong cùng Một Bọc. Vì cùng một mẹ một cha, mà lại còn được sinh ra cùng một lần, nên họ là sinh đôi, giống nhau như đúc.

Như vậy, Truyền kỳ Trầu Cau rút từ biểu tượng Một Bọc Trăm Con ra hai người, hai Anh Em, để đem vào cuộc sống thực tại. Do tương quan nền tảng nầy, Truyền kỳ Trầu Cau chính là phần ứng dụng cụ thể của Truyền kỳ Tiên Rồng.[1]

Để nhấn mạnh sự mật thiết của Tương Quan Anh Em, Truyền kỳ đi vào từng chi tiết. (1) Ngoài việc sinh đôi, đồng nhất về nguồn gốc, (2) hai người còn giống nhau như đúc, tức là đồng nhất vừa về thể chất vừa về tinh thần. Và rồi, (3) họ còn đồng nhất cả trong tình thân, thương nhau rất mực; (4) mà cũng đồng nhất cả về cuộc sống, họ không hề lìa nhau.

Họ đồng nhất về mọi phương diện. Tình thắm thiết của tương quan Anh-Em thực tột cùng.

b. Tương quan Vợ - Chồng

Thế nhưng, trong cuộc sống thực tế, ngoài anh em ruột thịt, Con Người bao giờ cũng liên hệ thêm với nhiều người khác, đặc biệt với người khác phái. Do đó, Truyền kỳ thêm một nhân vật thứ ba, một cô gái.

Cái cộng đoàn ba người nầy đặt ra một vấn đề mới, vấn đề vị thứ trong giao tiếp. Dầu tự căn cơ, hai anh em sinh cùng một lần và giống nhau như đúc, nhưng hai người vẫn là hai. Trong xã hội đông người, luôn phải có sự phân biệt giữa người nầy với người kia.

Việc phân biệt lại càng cần thiết hơn khi mà người thứ ba muốn có liên hệ đặc biệt. Vì vậy, Truyền kỳ phân biệt một người là Anh, một người là Em. Và Cô Gái kết hôn với người anh.

Do việc kết hôn, người anh và cô gái tạo thêm một tương quan khác, Tương Quan Vợ Chồng. Từ đây hai người kết hiệp trọn vẹn với nhau, và cùng nhau thể hiện một cuộc sống chung toàn vẹn. Tương quan nầy lặp lại mối tương quan phối hiệp giữa Tiên và Rồng, như ở Truyền kỳ Tiên Rồng.[2]

c. Ruột thịt và Phối hiệp

Vậy là từ nay, giữa ba người có hai mối tương quan : tương quan thân thương ruột thịt giữa hai ANH-EM trong Bọc Trăm Con, và tương quan phối hiệp toàn hảo giữa hai VỢ-CHỒNG, giữa Tiên và Rồng.

*     *

4.2 Xung Đột và Giải Pháp

a. Xung đột

Nhưng rồi hai mối tương quan Anh-Em và Vợ-Chồng đã trở thành xung đột, khi người chị dâu lầm tưởng người em là chồng mình.

Trong cuộc sống thực tế, dầu vì bất cứ lý do gì, sự xung đột giữa hai tương quan trên cũng thường xảy ra.

b. Giải pháp

Để giải quyết xung đột đó, Truyền kỳ Trầu Cau tiếp : Người Em, vì hạnh phúc gia đình anh chị, đã ra đi, rồi chết, và hóa thành đá vôi.

Người Anh, vì giống em như đúc và chưa bao giờ xa em, nên thấy thiếu vắng và đi tìm em, rồi chết bên người Em, và hóa thành cây cau.

Phần Cô Gái, vì có tương quan Vợ-Chồng với người anh, nên nàng đã ra đi tìm chồng, và chết bên gốc cau. Nàng hóa thành dây trầu.

Như vậy, tình người Em đối với người Anh vẫn không vì người chị dâu mà biến đổi; người Anh dầu đã lập gia đình, vẫn giữ nguyên mối tương quan Anh-Em; và người Vợ đã sống trọn mối tương quan Vợ-Chồng.

c. Ràng Buộc Hiệp Nhất

Điều kỳ diệu là hai mối tương quan đó đã có vẻ xung đột, đã gây chia cách giữa ba người, thì lại được Truyền kỳ Trầu Cau giải quyết bằng cách kết hiệp ba người thành một, với cả hai mối tương quan còn nguyên vẹn. Trầu, Cau, và Vôi được ở bên nhau. Khi được Con Người nhai chung với nhau, họ hòa lẫn vào nhau và hóa thành mùi vị thơm cay với màu máu đỏ.

Trước kia, chỉ vì Vợ Chồng và Anh Em thương nhau mà họ trở thành xung đột, chia cách. Nhưng cũng chính tình anh em và tình vợ chồng đó thúc đẩy họ lặn lội tìm nhau, để rồi quấn quít lấy nhau, và nhờ đó, được hòa lẫn vào nhau, được hiệp nhất trọn vẹn.

d. Tình Nghĩa vẹn toàn

Vậy là họ vẫn sống. Dầu diễn tả họ đã chết, nhưng thực sự họ vẫn sống, sống bên nhau qua Trầu Cau Vôi, và sống chung nhau trong những con người đang ăn trầu.

Mọi giai đoạn họ trải qua chỉ là những biến chuyển trong cuộc sống. Và chính qua những biến cố đó, họ đã bộc lộ, đã thể hiện tình nghĩa vẹn toàn với nhau.

Đây là bài học Sống Làm Người.

*     *

4.3 Đặc Tính Con Người

Như vậy, những thể hiện tình cảm cao quý của Con Người đã giải quyết ổn thỏa sự xung khắc thực tế của hai mối tương quan Anh-Em và Vợ-Chồng. Không thể coi thường mối tương quan nào, vì cả hai đều là nền tảng của Cuộc Sống Con Người.

Chính liên hệ hỗ tương mọi mặt giữa những người có tương quan Anh-Em và Vợ-Chồng đã tạo thành một ràng buộc hiệp nhất cho cuộc sống, thể hiện Đặc Tính Cá Biệt của Con Người.

Mối ràng buộc thiết yếu, thực tại và cao quý nầy, đã được Tổ Tiên gói trọn trong ba chữ : TÌNH GIA ĐÌNH.

*     *     *     *

5. BÀI HỌC TÌNH NGƯỜI

5.1 Tương Quan Người Với Người

Truyền kỳ Trầu Cau đã mở đầu bằng việc diễn tả tương quan giữa hai Anh Em, rồi giữa hai Vợ Chồng, và kết thúc bằng việc cả ba người ở luôn bên nhau, hòa hiệp với nhau thành một. Như vậy, chủ điểm của Truyền kỳ chính là mối tương quan giữa ba người.

Vậy mà, hai Anh Em chính là tượng trưng của Trăm Người cùng Một Bọc, và hai Vợ Chồng là hình ảnh của Tiên và Rồng. Tiên Rồng và Anh Em Một Bọc lại là biểu tượng nền tảng của Con Người và của Xã Hội Loài Người.

Vì vậy, tuy nói về tương quan giữa ba người, mà cũng là nói về tương quan giữa mọi Con Người, giữa Con Người với Con Người.

*     *

5.2 Giống Nhau Như Đúc

Mối tương quan nầy được Truyền kỳ Trầu Cau xác định rất rõ ràng. Ngay từ mở đầu, Truyền kỳ nhấn mạnh tới sự liên hệ căn nguyên : hai người là Anh Em sinh đôi trong Một Bọc. Vì cùng một Mẹ một Cha, và được sinh ra cùng một lần, nên họ hoàn toàn giống nhau về mọi phương diện, họ giống nhau như đúc.

Đang khi đó, người Anh và Cô Gái đã kết duyên Vợ Chồng, đã kết hợp hai người thành một, đã trở thành Tiên Rồng phối hiệp. Họ cũng trở thành giống nhau như đúc.

Như vậy, dầu chi tiết có khác nhau, như màu da, chủng tộc, lịch sử, tuổi tác, niềm tin, khả năng, tính tình, hoàn cảnh... nhưng nền tảng, bản chất, vẫn là Con Người toàn vẹn, vẫn hoàn toàn như nhau, vẫn Giống Nhau Như Đúc.

Đây chính là nền tảng của mọi tương quan giữa hai Con Người. Khi nào nhận nhau là sinh đôi, là GIỐNG NHAU NHƯ ĐÚC, thì khi đó tương quan đích thực giữa Người và Người mới khởi hiện.

*     *

5.3 Quyết Chẳng Lìa Nhau

Giữa hai Anh Em, vì sinh ra như nhau và vì không có bất cứ điểm nào khác biệt, nên hai người thương nhau tận tình. Vì giống nhau như đúc, và thương nhau tận tình, họ không để bất cứ hoàn cảnh hay lý do gì có thể chia cách họ. Họ Quyết Tâm Không Bao Giờ Lìa Nhau.

Cũng vậy trong đời sống Vợ Chồng, tương quan Vợ Chồng đã kết hiệp cuộc sống của hai người thành một cuộc sống chung. Họ cũng Quyết Chẳng Lìa Nhau.

Như vậy, trong thực tại, Tương Quan giữa Con Người với Con Người phải đặt nền tảng trên xác quyết rằng không gì có thể chi phối Tình Thân thương Anh Em Một Bọc, hoặc Tình Phối hiệp Vợ Chồng Tiên Rồng. Quyết Tâm thắng vượt mọi trở ngại, mọi khó khăn, mọi hoàn cảnh, không để bất cứ gì có thể tách lìa nhau. QUYẾT CHẲNG LÌA NHAU.

*     *

5.4 Sống Chết Cho Nhau

Khi đã đặt nền tảng Tương quan trên Giống nhau như đúc và Quyết chẳng lìa nhau, ta mới có thể thâm cảm trọn vẹn lý do và hình ảnh tuyệt vời của phần Truyền kỳ kế tiếp.

Hai Anh Em đã thương nhau khắng khít, hai Vợ Chồng đã kết hiệp thành một cuộc sống. Nhưng lại vì hai mối tương quan đó mà ba người đã chia lìa nhau. Và rồi, nhờ thể hiện tình thân thương cách trọn vẹn, nên họ lại gặp nhau.

Có mối tình nào cao cả bằng tình của người Em sẵn sàng chết vì hạnh phúc gia đình Anh ? bằng tình của người Anh đi tìm Em đến chết ? và bằng tình của người Vợ chết vì tìm Chồng ? Họ thương nhau đến nỗi hy sinh mạng sống cho nhau.

Đây là dấu chỉ việc thể hiện Tình Thân thương trong Cuộc Sống. Khi thực sự thương nhau, hai người phải luôn đặt mình trong tâm trạng sẵn sàng sống chết cho người mình thương. Sống chết nầy không chỉ có nghĩa là sẵn sàng hy sinh tính mạng, mà phải là dành để mọi sinh hoạt, mọi tài trí của cải, mọi tâm tình sức lực, mọi giây phút của cuộc sống, cho người thương. SỐNG CHẾT CHO NHAU.

Nếu không đạt tới mức thâm sâu nầy, tình thân thương nhiều khi chỉ là những cảm xúc hời hợt và gây tổn hại.[3]

*     *

5.5 Có Nhau Mãi Mãi

Dầu đã sẵn sàng và đã chết vì thương nhau, những nhân vật trong Truyền kỳ Trầu Cau vẫn chưa cho là đủ. Sau khi chết, họ còn quấn quít nhau, che chở cho nhau.

Còn hình ảnh nào cao đẹp và ý nghĩa hơn cảnh tượng : bên tảng đá Vôi Người Em, dây Trầu Người Vợ âu yếm quấn quanh cây Cau Người Chồng ? Đang khi đó, cây Cau Người Chồng vươn lên cao vút, nâng đỡ vợ, và tỏa bóng che nắng che sương cho vợ, cho em. Họ vẫn ở mãi bên nhau, thương yêu và che chở cho nhau.

Tình thân thương khắng khít đó lại vươn tới tột đỉnh khi Trầu Cau Vôi được nhai chung. Khi đó, cả ba người, với hai mối tương quan Anh-Em Vợ-Chồng, hòa lẫn vào nhau để thành một phẩm vật với mùi vị thơm cay, với màu tươi đỏ thắm. Ba người đã thành một trong tình máu mủ nồng nàn.

Dầu trải qua mọi biến cố trong cuộc sống, kể cả sau khi chết, họ vẫn CÓ NHAU MÃI MÃI.

*     *

5.6 Cuộc Sống Tình Người

a. Nền tảng và việc Thể hiện Tình Người trong Cuộc sống

Trầu Cau Vôi thực là trọn Tình Anh Em, vẹn Nghĩa Vợ Chồng.

1. Họ đã đặt Tương Quan của họ trên nền tảng đầu tiên là Tự Mỗi Người, tự bản thân, mỗi người biết rõ mình thương nhau bằng tình Anh Em Một Bọc, và tình Tiên Rồng Phối Hiệp, là chính mình và mọi con người khác đều Giống Nhau Như Đúc.

2. Nền tảng thứ hai : để bộc lộ chính mình và kết tình thân Với Người Khác, mỗi người đã quyết tâm không để bất cứ hoàn cảnh hay ngoại vật nào có thể phân cách họ. Quyết Chẳng Lìa Nhau.

3. Trên hai nền tảng đó, họ thể hiện Tương Quan bằng Phương thức sống chết cho nhau. Họ dùng mọi giây phút của cuộc sống, bằng mọi sinh hoạt, với mọi tài của và phương tiện, để tăng triển tình thân, để sống trọn cho nhau, Sống Chết Cho Nhau.

4. Họ thể hiện Chủ đích của Tình Thân thương là quấn quít nhau, hòa lẫn vào nhau để cùng nhau luôn vui hưởng trọn vẹn Một Cuộc Sống Chung. Họ có nhau trong hiện tại và mãi mãiCó Nhau Mãi Mãi.

- Những tiêu chí nầy bảo đảm một tương quan hỗ tương đích thực giữa hai Con Người, giữa mọi Con Người. Có như vậy thì Tương quan giữa Người và Người mới thực sự là Tình Thân Thương toàn tâmHiệp Nhất trọn vẹn.

b. Sống Trọn vẹn Con Người

Bốn tiêu chí trên cũng là cách sống thực, thể hiện trọn vẹn Con Người, của Văn hóa Việt Nam.

Sống Tình Người đặt trên nền tảng 'Giống Nhau Như Đúc' là thể hiện Tình Thân Thương căn cứ trên Cuộc sống thực tại thường ngày, tức là sống Sức sống Thân Lực, nền tảng của Cuộc sống Con Người.

Sống Tình Người dựa trên quyết tâm không để bất cứ gì có thể chia cách nhau, 'Quyết Chẳng Lìa Nhau', là thể hiện trong cuộc sống thường ngày Sức sống Tâm Tình của Con Người.

Sống Tình Người bằng việc thể hiện 'Sống Chết Cho Nhau' là sống Sức sống Trí Tài của Con Người.

Sống Tình Người bằng việc thể hiện 'Có Nhau Mãi Mãi' là sống Sức sống Tuệ Linh của Con Người.

Như vậy, Sống Tình Người, sống trọn vẹn Tình Thân Thương toàn tâm, cũng chính là bộc lộ, thể hiện và tăng trưởng trọn vẹn 4 Sức sống của Con Người trong Cuộc sống từng ngày.[4]

*     *

5.7 Địa vị Tình Người trong Văn Hóa Việt Nam

a. Quan trọng vượt bực

Khi Truyền kỳ Trầu Cau kể Vua Hùng dạy dân ta ăn trầu, là dùng uy thế của Quốc Tổ mà nhấn mạnh tầm quan trọng vượt bực của việc ứng dụng thực tế Cuộc sống Tình Người, Thân Thương Toàn Tâm.[5]

b. Cho mọi Giao tiếp

Trong mọi cuộc giao tiếp, trong mọi Tương quan, không những giữa người sống với người sống, giữa người sống với người đã khuất, mà còn cả với những Vị Linh Thiêng, trầu cau vôi trở thành phẩm vật không thể thiếu của mọi nghi lễ. Với bất cứ ai, trong bất cứ trường hợp nào, miếng trầu luôn là nghi thức khởi đầu tương quan, khởi đầu câu chuyện.

Khi mời nhau miếng trầu, tức là đã cùng nhau nhắc nhớ và chia sẻ 4 Tiêu chí Giống nhau như đúcQuyết chẳng lìa nhauSống chết cho nhau, và Có nhau mãi mãi, thì sự giao tiếp cũng phải theo đó mà cư xử.

Vì vậy, mỗi lần ăn trầu, mỗi lần đặt trầu cau lên bàn thờ... là một dịp nhắc nhớ những bài học quý giá của Tổ Tiên, và phát huy truyền thống siêu việt của Dân tộc.

Nhờ như vậy, Văn hóa Việt Nam đã sống thực Tình Tương Thân, đã thực sự đối xử với nhau như Con Người với Con Người, và giúp thể hiện Tình Thân Thương Toàn Tâm, TÌNH NGƯỜI, một cách đích thực và trọn vẹn.

*     *     *     *

6. TÌNH NGƯỜI Trong VĂN HÓA VIỆT NAM

6.1 Tình và Nghĩa, Đạo

Nếp sống Việt Nam đã được kết tinh trong các Truyền kỳ. Vì vậy, Truyền kỳ Trầu Cau, nền tảng Tương quan và Tình Thân Thương, cũng giữ vai trò chính yếu trong cuộc sống và trong ngôn ngữ Việt Nam.

Trong xã hội Việt Nam, TìnhNghĩa, và Đạo luôn đi chung, và là Tiêu chí thiết thực của cuộc sống mỗi ngày.

Trong đời sống thực tại thường ngày, hai yếu tố của cuộc sống xã hội, là Tương quan Tình và Sinh hoạt Nghĩa, cũng luôn được ghép chung : Tình Nghĩa. Tình nghĩa vợ chồng, tình nghĩa làng xóm, tình sâu nghĩa nặng...

Tình nói tới Tương Quan Thân Thương, với chủ đích Kết hiệp, Có nhau mãi mãi.

Nghĩa nói tới Sinh Hoạt Bình Đẳng, với chủ đích Mọi người cùng hưởng.[6]

Đạo tổng hợp Tình và Nghĩa thành Tiêu chí sống từng ngày.

Một số thí dụ :

Tình :                     Nghĩa :                  Đạo :

Tương quan       Sinh hoạt chung     Tiêu chí sống

Tình Vợ Chồng   Nghĩa Vợ Chồng     Đạo Vợ Chồng

Tình Thầy Trò    Nghĩa Thầy Trò       Đạo Thầy Trò

Tình Bạn Bè      Nghĩa Bạn Bè          Đạo Bạn Bè

Tình Vua Tôi      Nghĩa Vua Tôi         Đạo Vua Tôi

Tình Người      Nghĩa Làm Người   Đạo Làm Người

- Cần chú ý là trong thời gian qua, sách vở đã cóp nhặt tài liệu của các Nho gia, nên ý nghĩa những tương quan trên đã bị ảnh hưởng Nho học Trung Hoa, và bỏ mất đặc tính Tiên Rồng Song Hiệp.

- Cần nhận định đúng ý nghĩa của đại chúng Việt Nam, trong nền Văn hóa Tiên Rồng Song Hiệp đích thực của Dân Việt Nam.[7]

*     *

6.2 Cách Xưng Hô

a. Tương quan cá biệt

Không đâu bộc lộ rõ ràng quan niệm về tương quan giữa Người với Người bằng chính việc đối thoại, tức là sự liên lạc trực tiếp giữa hai Con Người. Cách thức xưng hô lại là dấu chỉ hiển nhiên nhất.

Vậy mà, trong cách xưng hô, thay vì chỉ dùng những tiếng đơn giản như Ngộ - nịI - youJe - vous, dân Việt Nam đã dùng mấy chục từ ngữ khác nhau.

Điểm đặc biệt là trừ một số từ ngữ tổng quát hoặc theo chức vụ, chúng ta đều tự xưng, nói với người đối diện, và cả về người vắng mặt, bằng những tiếng ông, bà, chú, bác, cô, cậu, dì, thím, anh, chị, em, con, cháu...

Nhờ cách xưng hô hiện thực và tinh tế như vậy, nên ngay từ câu nói đầu tiên, mối tương quan giữa hai người được thiết lập một cách cụ thể, rõ ràng.

Cách xưng hô của dân Việt Nam quan tâm tới mối tương quan thiết thực với Người đối diện, giữa Con Người với Con Người.

b. Loài Người là Một Gia Đình

Ngoài ra, tất cả những từ ngữ xưng hô đều là những tiếng ưu tiên được dùng cho những người có liên hệ ruột thịt máu mủ trong gia đình.

Tình gia đình phổ quát đến nỗi những tiếng đó cũng được dùng cho cả những người chưa quen, cho mọi người.

Đã đối xử với nhau là thành phần ruột thịt của một gia đình, thì không lạ gì việc mọi người trong nước coi nhau như anh em, vua quan lo lắng cho dân như mẹ cha chăm sóc con thơ, và người dân sẵn sàng sống chết cho làng nước như sống chết cho người thân yêu.

Xã hội loài người, từ hai vợ chồng son, gia tộc, làng thôn, tới quốc gia, dân tộc, nhân loại... tất cả đều được Văn hóa Việt Nam quan niệm như một gia đình. Cũng do đó, tất cả đều được cư xử theo Truyền kỳ Trầu Cau.

Với Truyền kỳ Trầu Cau, Tổ Tiên đặt nền tảng vững chắc và chính xác cho mọi tương quan giữa Con Người với Con Người, cho nếp sống Tình Người trọn vẹn.

- Đây cũng là Nền Móng căn cội cho một Xã Hội Thanh bình Hạnh phúc đích thực.

c. Gọi bằng Tên Riêng

Cách gọi tên của dân Việt Nam cũng đặc biệt. Khác với nhiều giống dân khác, người Việt Nam không gọi nhau bằng tên Họ, mà bằng Tên Riêng, Dài hoặc Ngắn. Ví dụ, tên Dài là Ông Nguyễn Thanh Đức, tên Ngắn là Ông Thanh Đức, hoặc Ông Đức. Tên Họ chỉ nhiều người, còn Tên Riêng, Dài hay Ngắn, đều chỉ đích danh một người.

Mối tương quan Việt Nam luôn rõ ràng và cá biệt, trong mọi trường hợp.

d. Theo Ý người hỏi

Tương quan Con Người và Con Người cũng tỏ lộ ngay trong cách phát biểu ý kiến. Ví dụ câu hỏi : ‘Anh không muốn phải không ?’.

Để tỏ ý không muốn, người Anh, Pháp... trả lời : ‘No, Non’ (Không).

Nhưng người Việt Nam trả lời : ‘Ờ, Phải’ (Yes, Oui), tức ngụ ý : ‘Phải, anh nghĩ đúng, tôi không muốn’.

Người Anh, Pháp chú ý đến câu nói. Người Việt Nam trả lời theo ý người hỏi, chú trọng tới tương quan hơn văn phạm.

*     *

6.3 Trầu Cau với Cưới Hỏi

Vì Truyền kỳ Trầu Cau đặc biệt dạy về Tình Gia Đình, tình Anh Em, Vợ Chồng, nên trầu cau vôi trở thành lễ vật thiết yếu cho mọi nghi thức trong việc Cưới hỏi.

Mâm trầu và buồng cau giúp đôi tân hôn nhớ những bài học thiết thực về Tình Nghĩa và cuộc sống Vợ Chồng. Việc gởi trầu cau biếu bà con vừa để báo tin vui vừa để nhắc nhớ bài học Tình Gia Đình.

*     *

6.4 Trầu Cau và Hòa Giải

Trong đời sống cộng đoàn, miếng Trầu không chỉ mở đầu câu chuyện, mở đầu cuộc tiếp xúc, mà còn là biểu hiệu sự tiếp nối mối tương quan, đặc biệt khi tương quan đã lơi lỏng vì hiểu lầm, hoặc vì hiềm khích, tranh giành.

Vì vậy, trầu cau cũng là lễ vật cần thiết cho những buổi tạ tội, làm hòa, kết thân, giữa những người sống, cũng như với các Vị ở Thế giới Bên Kia.

*     *     *     *

7. SỰ TÍCH ÔNG TÁO

7.1 Tình Nghĩa Vợ Chồng

a. Sự tích

Ngày xưa, có đôi vợ chồng thất lạc nhau trong biến loạn. Người vợ lấy chồng mới. Sau đó, trong khi người chồng mới đi vắng, người vợ nhận ra một ông ăn mày là chồng cũ. Đang hàn huyên thì chồng mới trở về. Sợ gây hiểu lầm, người chồng cũ vội trốn trong đống rơm.

Người chồng mới đốt đống rơm để thui con vật vừa săn được. Thấy lửa cháy, bà vợ nhảy vô cứu người chồng cũ. Người chồng mới thấy vợ trong đống lửa, cũng nhảy vô cứu. Ba người chết.

Cảm động trước tình nghĩa vợ chồng, Trời cho ba người thành ba cục Ông Táo để làm gương cho mọi gia đình.

b. Ý nghĩa

Sự tích Một Bà Hai Ông tô đậm tình nghĩa Vợ Chồng, giữa những bất trắc của cuộc đời... và nhắc nhớ ba nhân vật của Truyền kỳ Trầu Cau.

Điểm khác nhau là Truyền kỳ Trầu Cau có hai anh em và người chị dâu. Ở đây là người đàn bà với chồng cũ và chồng mới.

Vì vậy, tích Ông Táo chú trọng tới Tình Nghĩa Vợ Chồng. Dầu không còn Tình, cũng còn Nghĩa. Cả ba người đều chết chung vì Tình và vì Nghĩa vợ chồng.

c. Biểu tượng Văn hóa

Bài học Tình Nghĩa Vợ Chồng nầy được đưa vào bếp, nơi gia đình sum họp mỗi ngày. Ba người đã trở thành ba Ông Táo. Cả Ba Người cùng được ở bên nhau, trong mọi nhà, để làm gương.

Cũng như tục Ăn trầu đã trở thành Truyền kỳ Trầu Cau, Tổ Tiên ta đã dùng truyện tích để biến Ba Cục Đá Kê Nồi thành biểu tượng văn hóa, để nhắc nhớ và phổ biến bài học Tình và Nghĩa Vợ Chồng, theo Văn hóa Việt.[8]

*     *

7.2 Đưa Ông Táo Về Trời : Sống đẹp Lòng Trời

Hằng năm, vào ngày 23 tháng chạp, có tục gia đình đưa Ông Táo cởi cá chép về Trời, để báo cáo chuyện gia đình trong năm cũ.

Táo về Trời với quần áo tả tơi, nhắc nhớ Chử Đồng không khố, và cũng về Trời... của Truyền kỳ Chử Đồng.

Truyền kỳ Chử Đồng nêu những Tiêu chí cho một Cuộc sống Bình Đẳng và Phát Triển. Chính Chử Đồng và Tiên Dung cũng là biểu tượng của những người thành công trong cuộc sống, nhờ đem hết của cải và tài năng giúp đở người khác, để mọi người cùng hưởng.[9]

- Ông Táo về Trời bằng cá chép. Cá chép là tiền thân của long, cá chép hóa long... càng chứng tỏ nguồn gốc Việt Nam của sự tích Ông Táo.

- Ông Táo về Trời báo cáo chuyện gia đình của năm cũ. Vì gia đình vây quanh bếp ăn uống chuyện trò mỗi ngày, nên Táo, Ba Cục Đá Kê Nồi, đã nghe biết mọi biến cố, mọi phẩm cách, của mọi người trong gia đình.

Việc ‘Táo báo cáo với Trời’ chính là cứu xét và thẩm định toàn bộ nếp sống của gia đình trong năm qua. Vì vậy, ghi nhớ việc Táo sẽ báo cáo với Trời, trong Năm Mới, mọi người, mỗi người, sẽ cố gắng sống cho xứng đáng hơn, cho hợp Ý Trời, cho đẹp Lòng Trời.[10]

*     *

7.3 Sống tốt đẹp hơn

Sự tích Ông Táo là ứng dụng thực tế, phổ biến tới mọi gia đình, những bài học về Tình Nghĩa Làm Người của Truyền kỳ Trầu Cau.[11]

Tục đưa Ông Táo về Trời lại nhắc nhớ những Tiêu chí cuộc sống Bình Đẳng và Phát Triển của Truyền kỳ Chử Đồng.[12]

Truyền kỳ Trầu Cau và Truyền kỳ Chử Đồng cũng là phần khai triển thực dụng của nguyên lý Thân Thương toàn tâm và Bình Đẳng căn cơ của Truyền kỳ Tiên Rồng, và là Nền tảng sâu vững nhất của Cuộc sống Xã hội Loài Người.[13]

Tất cả, từ truyện tích tới tục Đưa Ông Táo, đều nhắc nhớ mỗi người và toàn gia đình, phải căn cứ trên những Bài học Nền tảng của Nếp sống truyền thống, để xét lại cuộc sống trong năm cũ, để Tạ ơn và đền tạ Đức Trời Cao và Tổ Tiên Ông Bà... và để chuẩn bị cho một Cuộc Sống tốt đẹp hơn trong Năm Mới.

*     *     *     *

8. TRUYỀN KỲ TRẦU CAU Và Một Số VẤN ĐỀ LIÊN QUAN

8.1 Về Bản văn TÍCH TRẦU CAU 

Bản văn của Lĩnh Nam Chích Quái lại nói người em hóa thành cây cau, người anh thành đá.[14]

Bản văn nầy có điều không ổn. Nếu người em thành cây cau, như ở Lĩnh Nam Chích Quái, thì khi Tổ Tiên dùng dĩa trầu buồng cau trong hôn lễ không lý lại để chỉ chị dâu-em chồng.

Ngoài ra, Lĩnh Nam Chích Quái cũng đặt tên cho các nhân vật trong truyện. Hai anh em họ Cao, người anh tên Tân, người em tên Lang. Thực ra, ‘tân lang’ là tên tiếng Hoa có nghĩa là ‘cây cau’. Bản văn còn mưu đồ cho rằng tên Cau của tiếng Việt Nam là do họ Cao mà ra.

Thiết tưởng các tên đó không những không cần thiết mà còn có hại. Khi đặt tên, mặc nhiên xem đó là ba con người có thực, chuyện người hóa thành đá thành cây cũng có thực. Như vậy không những huyễn hoặc, mà còn loại bỏ hàm ý thâm thúy của Truyện tích.[15]

*     *

8.2 Tình Khỉ Đột và Tình Nuôi Heo. - Ác thú và Lợi dụng

Khi Con Người bị coi là một sinh vật kinh tế, là phương tiện sản xuất và tiêu thụ, hoặc là một loài thú tiến bộ, đấu tranh sinh tồn, thì làm sao có thể đối xử với nhau như Anh Em Một Bọc, làm sao có thể Sống Chết Cho Nhau, và Có Nhau Mãi Mãi ?

Khi cho rằng Con Người chỉ là một bọn khỉ tiến bộ nhờ gian manh trong đấu tranh sinh tồn, chỉ biết mạnh được yếu thua, thì tình người cũng chỉ là tình khỉ đột, mạnh hại yếu, thủ đoạn diệt ngay tình.

Khi coi nhau là phương tiện kinh tế, thì nhân quyền, nhân phẩm cũng lại là khả năng sản xuất và tiêu thụ của một đám thú vật dễ sai khiến. Tình người có khác gì tình nuôi heo nái.

Vì vậy, dầu có hô hào cho tình người, cho nhân quyền, cho cải tiến xã hội, thì rốt cuộc cũng ở trong vòng lẩn quẩn của mạnh được yếu thua, của thủ đoạn, của lợi dụng, của áp bức.

- Nhân phẩm, nhân quyền, xã hội, phải đặt nền tảng trên việc thực hiện Tình Người đích thực, trên Bình Đẳng căn cơ, trên Con Người đích thực, tinh tuyền và trọn vẹn, như ở Truyền kỳ Trầu Cau và Truyền kỳ Chử Đồng.

*     *

8.3 Ngụy Quân tử

Ngoài ra, dầu bề ngoài có Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín, mà không có nền tảng Bình Đẳng Căn Cơ và Thân Thương Toàn Tâm, thì cũng chỉ là ngụy quân tử : nhân thành nông nổi, nghĩa thành che đậy, lễ thành hình thức, trí thành thủ đoạn, tín thành bịp bợm.

Cũng chỉ vì không có nền tảng Truyền kỳ Chử Đồng và Truyền kỳ Trầu Cau, mà thuyết Chính Danh của Khổng học đã giúp hôn quân thành bạo chúa, ác nhân thành lộng thần.

*     *     *     *

9. TÓM LƯỢC VÀ SƠ ĐỒ

9.1 Tóm Lược

Truyền kỳ TRẦU CAU - SỐNG TÌNH NGƯỜI - Nền Tảng Tương Quan Giữa Người Và Người

1. DẪN NHẬP

2. TRUYỀN KỲ TRẦU CAU

3. GIẢI THÍCH TẬP TỤC

3.1 Tục Ăn Trầu

3.2 Quan Trọng Đặc Biệt

4. TÌNH GIA ĐÌNH

4.1 Hai Mối Tương Quan

   a. Hai Anh Em sinh đôi : Tương quan Anh Em. - từ Một Bọc trăm Anh Em

   b. Người Anh lấy vợ : Tương quan Vợ Chồng. - Tiên Rồng hiệp nhất

   c. Ruột thịt và Phối hiệp

4.2 Xung đột và Giải pháp

   a. Chị dâu lầm tưởng : xung đột giữa 2 tương quan

   b. Giải pháp : - Em bỏ đi, chết thành đá Vôi. - Anh tìm Em, chết thành cây Cau - Vợ tìm Chồng, chết thành dây Trầu

   c. Ràng Buộc Hiệp Nhất : Cau Trầu Vôi quấn quít, nhai chung, hòa lẫn : trở thành một, hiệp nhất

   d. Tục ăn trầu : Tình Nghĩa vẹn toàn

4.3 Đặc Tính Con Người

   Anh-Em, Vợ-Chồng. Tình Gia Đình : 2 tương quan nền tảng của Con Người

5. BÀI HỌC TÌNH NGƯỜI

5.1 Tương Quan Người Với Người

5.2 Anh Em sinh đôi Một Bọc, Vợ Chồng hiệp nhất Tiên Rồng : Giống Nhau Như Đúc 

5.3 Anh Em thương nhau rất mực, Vợ Chồng chung một cuộc sống : Quyết Chẳng Lìa Nhau

5.4 Em chết vì gia đình Anh, Anh chết vì tình Anh Em, Vợ chết vì tình Vợ Chồng : Sống Chết Cho Nhau

5.5 Em thành Vôi, Anh thành Cau, Vợ thành Trầu : ở bên nhau, được nhai chung, hiệp nhất : Có Nhau Mãi Mãi

5.6 Cuộc Sống Tình Người

   a. Nền tảng và Thể hiện Tình Người : 4 Tiêu chí 4 phương diện : a. Tự mỗi người, b. Với người khác, c. Phương thức thể hiện, d. Chủ đích

   b. Sống Trọn vẹn Con Người : sống 4 Tiêu chí là sống 4 Sức sống : Thân Lực, Tâm TìnhTrí Tài, Tuệ Linh

5.7 Địa vị Tình Người trong Văn Hóa Việt Nam

   a. Vua Hùng dạy dân ăn trầu : quan trọng vượt bực

   b. Trở thành phẩm vật của mọi nghi lễ : Tiêu chí mọi giao tiếp

6. TÌNH NGƯỜI Trong VĂN HÓA VIỆT NAM

6.1 Tình theo Văn Hóa Việt Nam

   a. Tình

   b. Tình, Nghĩa và Đạo

6.2 Cách Xưng Hô

   a. Tương quan cá biệt : tinh tế

   b. Loài Người là Một Gia đình

   c. Gọi bằng Tên Riêng, dài hoặc ngắn : rõ ràng và cá biệt 

   d. Theo ý người hỏi : chú trọng tới con người

6.3 Trầu Cau với Cưới Hỏi : tình nghĩa và cuộc sống gia đình

6.4 Trầu Cau với Tạ Tội, Hòa Giải, cả với Thế giới Bên Kia

7. SỰ TÍCH ÔNG TÁO

7.1 Tình Nghĩa Vợ Chồng

   a. Sự tích

   b. Ý nghĩa

   c. Biểu tượng văn hóa

7.2 Tục Đưa Ông Táo Về Trời : Sống đẹp Lòng Trời

7.3 Bài học Sống tốt đẹp hơn

8. TRUYỀN KỲ TRẦU CAU Và Một Số VẤN ĐỀ LIÊN QUAN

8.1 Về Bản văn Tích Trầu Cau

8.2 Tình Khỉ Đột và Tình Nuôi Heo

8.3 Ngụy Quân tử

 *     *

9.2 Sơ đồ

a. Sơ đồ Tóm Lược Truyền Kỳ TRẦU CAU - SỐNG TÌNH NGƯỜI - Nền Tảng Tương Quan giữa Người và Người

b. Sơ đồ Tiêu chí SỐNG TÌNH NGƯỜI và Cuộc Sống Con Người

_________________

 [1] Về Một Bọc Trăm Con, đọc bài 202. Nền Tảng Cuộc Sống Con Người và Xã Hội - Truyền Kỳ Tiên Rồng, phần 5, đb đoạn 5.2.

[2] Về Tiên Rồng phối hiệp, đọc bài trên, phần 4, đb đoạn 4.2.

[3] Trước đây, vào thời chiến tranh Việt Nam, nhiều người xúc động vì hình ảnh máu lửa được trình chiếu hằng ngày trên truyền hình, truyền thông,, nên quá thương cảm mà ủng hộ phong trào Phản chiến.

    Tuy nhiên, vì không ‘sống chết cho nhau’, không thực sự dấn thân, không ‘giống nhau như đúc’, không đặt mình vào hoàn cảnh người đang chiến đấu, không thực tâm tìm hiểu lý do cuộc chiến... mà chỉ là người ngoại cuộc, chỉ thương hại, nên tình thương hời hợt của họ đã bị lợi dụng để gây thêm khốn khổ cho những người họ muốn cứu.

[5] Về VuHùng Quốc Tổ, đọc Lược Sử 7000 Năm Tộc Việt, tr 255 : bài 18 Vua Hùng : 9 Vua Hùng Bà - 9 Vua Hùng Ông  .

[8] Sự tích Một Bà Hai Ông nầy lại được đưa vào bếp, là nơi sinh hoạt thường ngày của phụ nữ... trái ngược hẳn với nguyên tắc của Tống nho ‘gái chính chuyên một chồng’, dầu chồng đã chết (!).

[10] Ngày 23 tháng Chạp cũng là ngày Lễ Tạ Tổ. Đây là ngày mọi người trong gia đình nhìn lại cuộc sống của mình trong suốt năm qua, để vừa vui mừng và tạ ơn vì những tốt đẹp của năm cũ, và vừa để có những quyết định sửa đổi, hoặc thăng tiến, cho năm tới. - Đọc Nếp Sống Tâm Linh Việt Nam322. Tám Tết Lễ Việt, đoạn 2.1.

[14]  Bản dịch Lê Hữu Mục, Huế, 1960, tr 50.

[15] Về âm mưu của Trung Hoa ở Lĩnh Nam Chích Quái, đọc Lược Sử 7000 Năm Tộc Việt, tr 243 : bài Nguồn Gốc Tiên Rồng - Lạc Long Quân và Âu Cơ là Mưu Đồ Đồng Hóa Tộc Việt vào Tộc Hoa, đoạn 3.2 - 3.4.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét