Thứ Năm, 7 tháng 10, 2021

206. LÀM VIỆC LÀNG - TRUYỀN KỲ AN TIÊM, QUYỀN LÀM NGƯỜI DÂN

LÀM VIỆC LÀNG - TRUYỀN KỲ AN TIÊM

QUYỀN LÀM NGƯỜI DÂN

(Hiệu chính 9/2021)

1. DẪN NHẬP

2. TRUYỀN KỲ AN TIÊM

3. NGƯỜI DÂN VIỆC LÀNG

4. CÔNG TÁC VIỆC LÀNG

5. ĐẶC TÍNH VIỆC LÀNG

6. LIÊN HỆ LÀNG VÀ NƯỚC VIỆT NAM

7. CHỨC NĂNG CỦA LÀNG VIỆT NAM

8. KHÁC BIỆT GIỮA VIỆC LÀNG VIỆC NƯỚC

9. TRUYỀN KỲ AN TIÊM và Một Số VẤN ĐỀ LIÊN QUAN

10. TÓM LƯỢC VÀ SƠ ĐỒ

11. GHI CHÚ

*     *     *     *

1. DẪN NHẬP

Truyền kỳ AN TIÊM đưa An Tiêm ra đảo hoang trồng dưa, lập làng, là để giới thiệu Nếp Sống Làng Thôn theo Văn hóa Việt Nam.

Đối với triều đình, mỗi Làng là một đảo ngoài biển khơi. Trong làng, người dân tự túc, tự lập, tự quyết cho chính mình.

Người dân không trực tiếp với vua quan, quyền chức, mà qua Làng. Làng là đơn vị đại diện cho người dân trước mặt chính quyền.

Định chế Làng-Nước của Việt Nam, với phép vua thua lệ làng, đã giúp người dân Việt Nam được hưởng nếp sống tự chủ, trong khi vẫn tích cực đóng góp và hòa điệu với nếp sống của cả Nước.

Cấu trúc và tương quan đặc biệt của thể chế Làng-Nước Việt Nam, với tầm vóc thích đáng của Làng, bảo đảm cho mọi người Dân luôn có những nhận xét và quyết định thích đáng, vừa tầm độ. Do đó, người Dân thể hiện Quyền Kiểm Soát và Định Đoạt trong Việc Chung của Làng, bảo đảm nếp sống Dân Chủ đích thực và hữu hiệu.

- Truyền kỳ An Tiêm đặt nền tảng cho các tiêu chí về Công tác Việc Làng và Đặc tính của Dân Làng. Qua đó, ta còn thấy thêm Liên hệ Làng-Nước, các Chức năng của Làng, và sự Khác biệt giữa Việc Làng Việc Nước. Nếp sống làng thôn Việt Nam thể hiện Quyền Sống Thích đáng, Quyền sống Đoàn kết, Quyền sống Dân chủ, Quyền Làm Người Dân của Con Người.

Thể chế nầy là đặc điểm căn cội, giúp nếp sống Việt Nam khác hẳn mọi thể chế chính trị khác.

*     *     *     *

2. TRUYỀN KỲ AN TIÊM

An Tiêm là con nuôi của Vua Hùng, nhưng bị đày ra đảo hoang. Dầu An Tiêm cố công khai phá, đảo vẫn khô cằn.

Một hôm, có con chim lạ bay ngang và để rớt mấy hột giống. Nhờ An Tiêm cố công chăm sóc, các hột giống đó mọc thành loại dưa thơm ngon tươi mát.

An Tiêm ghi dấu trên dưa và thả xuống biển. Nhiều người vớt được dưa nên tìm tới đảo. Đảo hoang trở thành làng thôn đông đúc.

An Tiêm gởi dưa về dâng vua. Từ đó, nước ta có dưa hấu, và được dùng làm lễ vật cúng tế.

*     *     *     *

3. NGƯỜI DÂN VIỆC LÀNG

3.1 Người Dân

a. Con nuôi của Vua Hùng

Như tất cả các Truyền kỳ khác, Truyền kỳ An Tiêm cũng được đặt vào Thời Hùng, là thời đã đi vào huyền sử của Việt Nam.[1]

Nhiều bản văn đã dài dòng về gốc tích của An Tiêm, và về lý do khiến An Tiêm bị đày ra đảo hoang.

Thực ra, nhìn trong toàn Bộ Truyền Kỳ, địa vị làm con nuôi Vua Hùng của An Tiêm cũng có ý nghĩa đặc biệt.

Ở Truyền kỳ Tiết Liêu và Truyền kỳ Chử Đồng, đã có hoàng tử Tiết Liêu, công chúa Tiên Dung và phò mã Chử Đồng. Ở đây có thêm con nuôi An Tiêm.

Ở Truyền kỳ Tiết Liêu, hoàng tử Tiết Liêu nhờ được Tổ dạy cách làm bánh chưng bánh dày, nên được làm vua để an Dân thịnh Nước. Ở Truyền kỳ Chử Đồng, nàng công chúa Tiên Dung, đã cùng với chàng không khố Chử Đồng, lo phát triển đời sống Người Dân.

Ở đây, An Tiêm không làm việc Nước rộng lớn, mà chỉ khai khẩn một đảo hoang thành làng thôn.

Như vậy, Truyền kỳ nhấn mạnh lý lịch con nuôi là để giới thiệu An Tiêm cũng làm việc chung, nhưng ở tầm độ khác với công chúa và hoàng tử. An Tiêm làm Việc Làng.

b. Con dân

Lại nữa, theo quan niệm chính trị Việt Nam, mọi người trong nước đều là con dân của vua, và đều được vua quan chăm sóc như mẹ cha chăm sóc đứa con mới sinh. Như vậy, mọi người dân đều là con nuôi của Vua Hùng.

An Tiêm biểu trưng của mọi người dân trong nước.

- Vì những liên hệ mật thiết giữa Việc Làng, Việc Nước, và Nền tảng Sinh Hoạt Chung, ta nhìn Truyền kỳ An Tiêm trong tương quan với Truyền kỳ Tiết Liêu và Truyền kỳ Chử Đồng.[2]

*     *

3.2 Quan Niệm Làng Thôn Việt Nam

a. Đảo hoang

Sau khi giới thiệu quan niệm đặc biệt về vị trí của người dân, Truyền kỳ An Tiêm nhấn mạnh : An Tiêm bị đày ra đảo hoang.

Bị đày ra đảo hoang, sống trên đảo hoang, là sống xa cách mọi người. An Tiêm không những xa vua, xa triều đình, mà cũng không liên lạc với những người có quyền lực.

Ở đảo hoang còn có nghĩa là phải tự lực tự túc trong mọi việc, từ việc sinh sống hằng ngày, tới mọi thích nghi, mọi quyết định lớn nhỏ. Tất cả đều do chính mình định liệu, và cũng chính mình lãnh nhận mọi hậu quả.

b. Do dân, dân chủ

Đây là phần giới thiệu nếp sống đặc biệt của chế độ Làng Thôn Việt Nam. Khác với tổ chức chính trị của các văn hóa khác, quyền hạn vua quan Việt Nam không những không can thiệp vào đời sống từng người, mà cũng không xâm phạm cả nếp sinh hoạt của làng thôn.[3]

Đối với triều đình, mỗi làng là một đảo ngoài biển khơi. Trong làng, người dân tự lập tự quyết cho chính mình.

Làng tự lập đến nỗi không những có một ban quản trị riêng, do chính dân làng bầu ra, mà còn có cả những điều lệ cho hệ thống hành chính riêng của làng. Làng có một ngôi đình để thờ vị Thần riêng, với những nghi thức do truyền thống riêng. Làng có tổ chức trị an riêng, với những tiêu chuẩn thưởng phạt do làng quy định. Làng còn tự đặt qui chế luân phiên phân phối và xử dụng ruộng đất, tài sản, của làng.

Trong phạm vi làng, cả quyền phép của vua quan cũng kiêng nể những điều lệ riêng nầy. ‘Phép vua thua lệ làng’.

Không có chế độ nào người dân được toàn quyền, trực tiếp do dân, và dân chủ hơn.[4]

*     *     *     *

4. CÔNG TÁC VIỆC LÀNG

4.1 Rồng Khai Phá

a. An Tiêm Gắng sức Khai phá

An Tiêm ra đảo hoang, như Cha Rồng ra biển, như Chử Đồng cũng đã ra biển, chính là hình ảnh Rồng ra biển vẫy vùng, để thi thố tài năng. Vì vậy, nói An Tiêm khai phá đảo hoang tức là mô tả việc mở mang vùng đất mới, khởi đầu công tác khai hoang lập làng.

b. Cuộc sống khốn đốn

Nhưng dầu An Tiêm cố công gắng sức, đảo vẫn khô cằn. Hình ảnh An Tiêm một mình trên đảo vắng, cũng nhắc nhớ hình ảnh chàng không khố Chử Đồng ở ven sông. Cả hai đều sống bên bờ nước, đều khổ sở đói khát, đều không nhà không cửa, không thân thuộc bạn bè... và dầu đã vận dụng toàn tài toàn sức, cả hai vẫn cứ phải sống trong khốn đốn.

*     *

4.2 Tiên Đem Mầm Sống

a. Chim Tiên

Cuộc sống đọa đày đó kéo dài cho tới ngày An Tiêm gặp được một con chim lạ.

Theo thường tình, chi tiết nầy thực kỳ quái. Tại sao sự tích lại không diễn tiến như nhiều truyện phiêu lưu khác ? Tại sao không cho An Tiêm gặp được giống dưa quý nơi hải đảo không người ? Như vậy có phải hợp lý hơn không ? Tại sao lại phải có con chim lạ bay tới ? Thêm phiền phức, khó tin.

Nhưng đặc điểm lại ở chỗ khó tin đó. Như chàng Rồng Chử Đồng đã cô đơn đói lạnh cho tới lúc nàng Tiên Tiên Dung ghé lại, thì cuộc sống của Rồng An Tiêm cũng hoàn toàn thay đổi vào chính khi con chim xuất hiện. Chim là hiện biểu của Tiên, của tinh thần, của truyền thống Việt Nam.

b. Đón nhận Mầm sống của Nước

Chim Tiên đem tới cho An Tiêm mấy hột giống.

Tuy nhỏ bé, hột giống sẽ nảy sinh thành lá thành cây, sẽ đơm hoa kết trái. Hột giống sẽ thay đổi bộ mặt của đảo hoang khô cằn.

Hột giống từ Chim nhấn mạnh tới sự góp phần của Tiên vào việc phát triển Cuộc Sống Con Người. Trước kia chỉ có Rồng, nên cùng cực, bơ vơ, cằn cỗi. Nay nhờ đón nhận Hột giống của Tiên, cuộc đời An Tiêm vụt đổi mới. Có thêm Tiên, sự sống mới thực sự bắt đầu.

Ở Truyền kỳ Tiết Liêu, Tiết Liêu lo Việc Nước thì được Tổ hiện về trong mơ và chỉ cách lấy gạo làm bánh. Ở Truyền kỳ Chử Đồng, nàng Tiên Tiên Dung đem của cải lập phố xá, giúp dân phát triển cuộc sống. Ở đây, An Tiêm lo Việc Làng đã được Chim cho hột giống. Gạo, của cải, và hột giống là thực tế cuộc sống, là thức ăn. Tổ và Chim biểu tượng cho phần Tiên, cho tinh thần, cho Sức sống của Dân tộc.

c. Nền tảng Tương quan Làng-Nước

Như vậy, Chim Tiên cho Rồng An Tiêm hột giống có nghĩa là An Tiêm đón nhận vừa trợ giúp Vật chất thiết thực  vừa cuộc sống Tinh thần của Nước, thì việc khai phá đảo hoang mới thực sự bắt đầu.

Đây là Nền tảng việc Lập Làng và là mối Liên hệ Nền tảng trong tương quan Làng-Nước theo truyền thống Việt Nam.[5]

*     *

4.3 Cần cù thực hiện

Nhờ đón nhận mầm sống của Nước, vừa vật chất vừa tinh thần, nên dầu hoàn cảnh khắc nghiệt, An Tiêm gắng sức chăm sóc các hột giống. Chàng lo tưới bón vun xới, che nắng che gió, và kiên trì theo dõi tăng trưởng tự nhiên của cây cỏ.

Nhờ An Tiêm đem hết tài trí chăm sóc, sự sống tươi mát đã xuất hiện và phát triển trên mảnh đất hoang vu.

*     *

4.4 Hưởng nhận Thành quả

Sau một thời gian tăng trưởng, dây dưa đã sinh hoa kết quả thành trái cây tươi ngon thơm mát giữa đảo hoang khô cằn.

Tương lai tươi sáng đã ló dạng. Cuộc sống của An Tiêm, và của đảo hoang, đã thực sự phát triển.

*     *

4.5 Làm Việc Làng

Đây là hình ảnh sinh hoạt Việc Làng, của từng người Dân.

(1) Mỗi người Dân luôn phải gắng sức khai phá để phát triển.

(2) Người dân cần đón nhận mầm sống vật chất và tinh thần của Nước, thì cuộc sống Dân Làng mới phát triển, mới hạnh phúc.

(3) Đem hết tài trí cần cù thực hiện, chuyên lo chăm sóc mầm sống của Tiên.

(4) Mỗi người sẽ được hưởng nhận trọn vẹn thành quả công khó của mình.

*     *

4.6 Việc Làng và Cuộc Sống Con Người

Trong công tác Việc làng, người Dân bộc lộ và tăng trưởng trọn vẹn Cuộc sống của mình.

Khi Gắng sức Khai phá, người Làm Việc Làng, người Dân, bộc lộ và tăng trưởng Sức sống Thân Lực nền tảng của mình.

Khi Đón nhận và phát triển Mầm sống của Nước, vừa vật chất vừa tinh thần, người Dân sống Sức sống Tuệ Linh của mình.

Khi vận dụng tài trí Cần cù Chăm sóc cây mới, người Làm Việc Làng sống Sức sống Trí Tài của mình.

Khi vui sướng theo dõi sự tăng trưởng của dưa và Đón nhận Thành quả, là bộc lộ và tăng trưởng sức sống Tâm Tình.

*     *

4.7 Việc Làng trong Văn hóa Việt Nam

a. Trọn Vẹn Tiên Rồng

Theo Văn hóa Việt Nam, công việc Làng, cũng như bất cứ công cuộc gì thuộc về Con Người, phải trọn đủ hai phần Tiên Rồng.

Dầu có đem tài sức của Rồng ra khai phá, phát triển vật chất, mà thiếu phần Tiên, tức là thiếu phần phát triển tinh thần, thì không những không làm cho cuộc sống tươi tốt hơn, mà trái lại, càng làm cho con người thêm khốn đốn khổ cực.

Nếu chỉ để thu tích của cải vật chất, dầu dưới bất cứ hình thức nào, như chủ trương của đế quốc, của thực dân, của tư bản, của cộng sản... mà không có phần Tiên, tâm hồn, Tuệ Linh, thì không những không giúp ích cho Con Người, mà còn làm cho Con Người thêm khốn khổ, biến Con Người thành nô lệ, thành thú vật, máy móc. 

Phải có Chim đem hột giống cho An Tiêm thì đảo hoang mới xanh tươi. Phải thể hiện trọn vẹn Tiên Rồng, trọn vẹn vật chất và tinh thần, thì mới thực sự làm ích cho Con Người.

b. Tiên Nào Rồng Nấy

So sánh Truyền kỳ An Tiêm với Truyền kỳ Chử Đồng, ta lại thấy chàng Rồng An Tiêm có cách gặp Tiên khác với chàng Rồng Chử Đồng.

Cuộc đời Chử Đồng bừng sáng khi gặp mặt và chung sống với Tiên Dung, và cả hai, một Tiên một Rồng, một công chúa một không khố, một dùng của một dùng tài, cùng nhau chung sức phát triển cuộc sống dân nước.

Về phần An Tiêm, chàng đã không thực sự gặp gỡ, cũng không chia sẻ cuộc sống với Tiên. An Tiêm chỉ được chim Tiên bay ngang cho mấy hột giống. An Tiêm, người dân, sống với thực tế cuộc sống hằng ngày, nên phần Tiên cũng sát gần thực tại hơn

Tuy cũng là Tiên Rồng, nhưng Rồng nào Tiên nấy, Tiên nào Rồng nấy. Tiên Rồng song hiệp.

*     *     *     *

5. ĐẶC TÍNH DÂN LÀNG

5.1 Chung Hưởng Lợi Ích

Khi đã hưởng kết quả, An Tiêm ghi dấu hiệu thành công của mình trên dưa và thả dưa xuống biển. An Tiêm đã không độc quyền hưởng lợi, không coi đó là đặc quyền cá nhân, nhưng phổ biến lợi ích cho mọi người.

Đây cũng chính là đặc điểm của Văn hóa Việt Nam. Trải suốt mấy ngàn năm, dân Việt Nam luôn quan niệm tài năng và của cải của một người không phải chỉ để hưởng lợi riêng, mà để giúp ích cho đời. Những người có tài, những kẻ ra làm quan, cũng đều để đóng góp cho việc chung, cho Làng cho Nước, để mọi người chung hưởng lợi ích.

Chung hưởng lợi ích là chủ đích của mọi cuộc sống chung.

*     *

5.2 Tự Ý Qui tụ

Nhờ An Tiêm phổ biến loại dưa mới, nhiều người cũng được chung hưởng sự thơm mát của dưa, nên họ tìm tới đảo An Tiêm.

Đây cũng là đặc tính nền tảng của làng thôn Việt Nam. Người dân tự ý tới ở, tự ý qui tụ thành làng. Tuy cách khởi lập các làng có khác nhau, nhưng điều kiện tiên quyết vẫn là lợi ích và sự tự quyết của những người qui tụ.

Không một người dân bình thường nào bị bó buộc phải cư trú tại một nơi nhất định. Họ có thể tùy thích tới ở hay bỏ đi, miễn là chính họ chấp nhận lệ làng nơi họ muốn gia nhập.[6]

Tự Ý Qui tụ cũng có nghĩa là mỗi người quyết tâm gia nhập, dầu những khó khăn, xa lạ, chướng ngại ban đầu.

*     *

5.3 Chung Nhau Phát Triển

Sự kiện những người gặp dưa nên tụ họp, và biến đảo hoang thành làng thôn sầm uất, đã nói lên công dụng và lợi ích của làng.

Làng được thành lập không chỉ vì lợi lộc vật chất, biến nơi khô cằn hoang vu thành trù phú, mà còn đặc biệt vì lợi ích tinh thần, tức là giúp người dân thoát nạn bơ vơ vất vưởng, để cuộc sống sum vầy, đầm ấm, tươi mát hơn.

Tụ họp nhau thành làng, mọi người chung công sức, chung tài trí, cùng nhau chia sẻ mọi cảnh sống, giúp nhau thắng vượt khó khăn, cùng nhau gánh trách nhiệm, Chung nhau Phát triển cho đời thêm tươi.

*     *

5.4 Đóng góp cho Nước

Khi đảo hoang đã thành làng thôn, An Tiêm gởi dưa về dâng Vua Hùng.

An Tiêm tận lực dựng làng, nhưng vẫn không quên Vua Hùng đang lo Việc Nước. Dâng vua trái dưa mới, An Tiêm muốn báo tin sự thành công của mình trong công tác của một người con nuôi, của một con dân.[7]

Đây cũng là việc thể hiện mối liên hệ của Làng đối với Nước. Như Nước giúp Làng mầm sống, vừa vật chất vừa tinh thần, Làng cũng đóng góp thành quả của mình cho Nước.

*     *

5.5 Sống thực Bài học Làm Dân

Dưa Hấu đã trở thành lễ vật cần thiết dâng cúng Tổ Tiên trong các ngày Tết Lễ, như Bánh Chưng Bánh Dày của Truyền kỳ Tiết Liêu.

Trong khi Bánh Chưng Bánh Dày là biểu hiệu của bài học Làm Việc Nước, thì Dưa Hấu nhắc nhớ phận vụ và trách nhiệm của người Làm Việc Làng, của mọi người Dân.

Khi quy định Dưa Hấu và Bánh Chưng Bánh Dày là lễ vật thiết yếu trong việc kính nhớ Tổ Tiên, Tổ Tiên đã đặc biệt nhấn mạnh tới mối liên hệ và tầm quan trọng của định chế Làng-Nước. Kính nhớ Tổ Tiên thì phải nhắc nhớ các bài học Làng-Nước.

Mỗi lần cẩn thận tìm kiếm trái dưa tươi tốt, mỗi lần tỉ mỉ chuẩn bị trái dưa trước khi đặt lên bàn thờ, mỗi lần nhìn thấy trái dưa trong khung cảnh uy nghiêm hương khói... là một lần chúng ta được nhắc nhớ và được thúc đẩy thực thi trọn vẹn về Phận vụ và Quyền lợi của Người Dân, cũng như về trách nhiệm thể hiện và củng cố định chế Làng-Nước.

MỖI NGƯỜI DÂN LÀ MỘT AN TIÊM.

*     *

5.6 Làm Việc Làng và Cuộc Sống Con Người

Mỗi người Dân là một người Làm Việc làng.

Khi sống trong Làng, Chung hưởng lợi ích của Làng, mọi người thể hiện và phát triển Sức sống Thân Lực nền tảng của mình.

Khi Tự ý qui tụ, quyết tâm gia nhập và tham gia Việc Làng, là thể hiện Sức sống Tâm Tình.

Khi đem hết tài trí, Chung nhau phát triển lợi ích vật chất và tinh thần của Làng, người Dân sống Sức sống Trí Tài

Khi Đóng góp cho Nước, thể hiện nếp sống chung của Toàn Dân, mỗi người sống Sức sống Tuệ Linh của mình.

*     *     *     *

6. LIÊN HỆ LÀNG VÀ NƯỚC VIỆT NAM

Đặc điểm độc đáo của Cấu trúc Xã hội Việt Nam là Làng Việt Nam. Trong xã hội Việt Nam, tổ chức, sinh hoạt, và tinh thần của Làng Việt Nam, đặc biệt, liên hệ giữa Làng Việt Nam và Nước Việt Nam, có những sắc thái mà làng thôn Trung Hoa và phương Tây đều không có.

6.1 Làng Biệt Lập Với Nước

Điểm cốt yếu của cơ cấu Làng Việt Nam là tính cách tự lập và độc lập của Làng đối với Nước. Đối với Nước, Làng là một đảo ngoài biển khơi. Dân Làng tự ý qui tụ, Làng có hệ thống xã hội do chính Dân Làng quy định.

Mỗi Làng Việt Nam có một Hương ước riêng, theo truyền thống riêng của Làng. Đây là bộ luật quy định chi tiết một hệ thống qui ước riêng về hành chính, luật pháp, kinh tế, tài chính, an ninh, xã hội, văn hóa, và cả vị Thần và nghi thức tế lễ riêng của Làng.

 Làng và Nước là hai hệ thống độc lập. Nước là một tập họp của Làng.[8]

*     *

6.2 Làng Đại Diện Người Dân

Khi gởi dưa về dâng vua, An Tiêm đã xử sự như là người đại diện của làng mới.

Trong truyền thống chính trị Việt Nam, làng là đơn vị đại diện người dân trong mọi quan hệ với Nước.

Vua quan không trực tiếp với người dân, mà qua Làng. Trong tất cả mọi việc, từ tiếp xúc, lịnh truyền, xử phạt, kể cả việc nộp thuế, bắt lính... Nước chỉ căn cứ vào Làng, liên lạc với Làng, và theo khả năng của toàn Làng mà định phần đóng góp cho Nước. Mỗi Làng lại tùy hoàn cảnh và khả năng cụ thể của các gia đình hoặc cá nhân liên hệ mà định phần tham gia.

Và 'phép vua thua lệ làng'.

Làng là Đơn vị Dân. Làng chu toàn phận vụ người Dân đối với Nước. Đối với Nước, không có từng người Dân riêng lẻ.

*     *

6.3 Làng Phát triển Nước

Phần đóng góp của Làng An Tiêm là loại trái cây mới. Nhờ làng của An Tiêm, mọi người trong nước đều được hưởng một loại dưa mới, một sức sống mới, thơm ngon tươi mát.

Chi tiết nầy xác định tầm quan trọng, và tính cách của Làng. Mỗi làng không những là một đóng góp cho Nước một cách thực tế, mà còn là một đóng góp đặc thù.

Làng là sức phát triển đặc thù của Nước.

*     *

6.4 Làng là Đơn Vị Nền tảng của Cơ cấu Chính Trị Việt Nam

Như vậy, Làng là đơn vị nền tảng của cơ cấu chính trị Việt Nam. Nước điều hợp các Làng. Định chế Làng-Nước nầy là đặc điểm căn cội, giúp Nếp Sống Việt Nam khác hẳn mọi thể chế chính trị khác.

Làng Việt Nam không chỉ khác biệt với các đơn vị hành chính phương tây ở nếp sống, mà còn về mọi phương diện, kể cả hành chính, tài chính, an ninh, luật lệ...

Làng có thể như một đơn vị bầu cử, nhưng tư cách của Làng cũng khác xa với các Đơn vị Bầu cử phương tây hiện đại. Đặc biệt, làng có ranh giới cố định, chứ không bị nhóm đương quyền tùy tiện thay đổi theo tỷ lệ cử tri ủng hộ...[9]

*     *     *     *

7. CHỨC NĂNG CỦA LÀNG VIỆT NAM

7.1 Làng thể hiện Quyền Sống Cuộc Sống Thích Đáng

Theo nguồn gốc và cấu trúc, Người Dân Làng Việt Nam tự lập tự quyết cho chính mình, tự mình thẩm định, chọn lựa, và thực hiện cuộc sống của mình. Luật pháp của vua cũng phải kiêng nể. Dân Làng chủ động kiến tạo và thừa hưởng một cuộc sống an vui tốt đẹp theo ý mình, thể hiện Cuộc Sống Thích Đáng như mình muốn.

Nhờ đó, Làng Việt Nam đã giúp người Dân sống Tự Lập Tự Chủ đích thực, trong khi tích cực đóng góp cho Nước.

Đây cũng chính là thể hiện Quyền sống Cuộc Sống Cá Nhân thích đáng, thể hiện Đặc tính Tự Tại Bẩm sinh của Con người.[10]

*     *

7.2 Làng thể hiện Quyền Sống Kết Đoàn

Nhờ Làng là đơn vị Dân, Nước không trực tiếp can thiệp vào từng người Dân, nên, khác với các thể chế khác, người dân không phải đơn độc đương đầu trực diện với cơ quan quyền lực. Họ còn được lệ làng, hàng xóm, và bà con thân thích, chia sẻ, trợ giúp, bù đắp, bảo bọc... Miễn là Làng chu toàn được công tác chung.

Nhờ đó, đối với người dân, Làng trở thành một bức tường che, một mái ấm, một bảo đảm vừa vật chất vừa tinh thần, vừa thực tế và vừa pháp lý. Trước quyền lực của Nước, Làng trở thành sức mạnh chung của toàn thể người Dân trong Làng.

Nhờ đó, người Dân Làng sống Nếp Sống Chung thích đáng, thể hiện Quyền Chung Sống, Quyền Sống Kết Đoàn, Quyền Làm Thành viên Xã Hội, thể hiện Đặc tính Xã Hội Bẩm sinh của Con Người.[11]

*     *

7.3 Làng thể hiện Quyền Làm Người Dân

Theo Truyền kỳ Tiên Rồng, nền tảng của Văn hóa Việt Nam, thể hiện Cuộc Sống Cá Nhân Thích Đáng chính là thể hiện đặc tính Tiên Rồng Song Hiệp của Con Người. Đây là Quyền và Trách nhiệm sống trọn vẹn Cuộc Sống Cá Nhân, tức là bộc lộ và phát triển toàn diện bốn Sức Sống được diễn đạt ở biểu tượng Tiên và biểu tượng Rồng.[12]

Cũng vậy, thể hiện Nếp Sống Chung Thích Đáng là thể hiện đặc tính Làm Anh Em Một Bọc. Đây là Quyền và Trách nhiệm Làm Thành Viên Xã Hội Loài Người, Quyền Mỗi Người được chung sức thể hiện một Xã Hội Thân Thương toàn tâm và Bình Đẳng căn cơ.

Thể hiện quyền Sống Cuộc sống Cá Nhân thích đáng, cùng với quyền Sống Kết Đoàn, chính là thể hiện Cuộc sống Làm Người toàn vẹn.

Trong tương quan giữa Nước và Dân, Làng là Đơn vị thể hiện Quyền LÀM NGƯỜI DÂN Toàn Vẹn.

*     *

7.4 Làng Thể hiện Quyền Sống Dân Chủ Đích thực

a. Tầm Nhìn và Tiếng Nói người Dân

Cấu trúc và tương quan đặc biệt của định chế Làng-Nước Việt Nam bảo đảm cho mọi người Dân luôn có cái nhìn và tiếng nói thích đáng, vừa tầm độ.

Đặc điểm quan trọng là Làng Việt Nam không quá lớn. Mọi sinh hoạt và công tác của Làng Việt Nam thích ứng với trình độ hiểu biết, việc tham gia, việc kiểm nhận, và tầm quyết định của người Dân Làng.

Do đó, người Dân thể hiện Quyền Định Đoạt và Kiểm Soát trong mọi kế hoạch và công cuộc trực tiếp ảnh hưởng tới cuộc sống của chính mình, bảo đảm nếp sống Dân Chủ đích thực và hữu hiệu.

b. Tầm vóc thích đáng của Làng

Cũng do đó, tầm vóc của Làng thay đổi theo tầm độ hiểu biết và tham gia của người Dân. Địa vực, hình thái, tầm sinh hoạt... của làng, cũng phải được cải tiến theo đà phát triển, cho sống động hiện thực. Trình độ nầy tùy thuộc nhiều yếu tố, như học vấn, giáo dục của dân làng, cũng như truyền thông, giao thông, tầm phát triển chung, và hiện trạng của Nước.

Tuy nhiên, điểm cốt yếu vẫn là tầm phát triển của Làng không trở thành quá to lớn và phức tạp, vượt ngoài tầm sinh hoạt, hiểu biết, và kiểm soát của người Dân.

*     *

7.5 Định chế Làng-Nước với hiện trạng

a. Người Dân và Quyền Lực

Từ xưa, nhiều nền văn hóa luôn bắt từng Con Người đơn độc phải gánh chịu mọi tai ách do giới quyền thế áp đặt. Thuế má, sưu dịch, quân vụ... đều trực tiếp tới từng người.

Hiện nay, hầu hết các cơ chế chính trị, không những đã biến đổi mọi tổ hợp phục vụ người dân thành phương tiện phục vụ giới đặc quyền, mà lại còn làm mọi cách để phá hủy tổ ấm gia đình và những cơ chế bảo bọc Con Người.

Với cơ cấu tổ chức Quyền lực hiện nay, với áp lực ngày càng lớn mạnh của các tổ chức quốc tế, với những trói buộc ngoại giao, kinh tế, tài chính, quân sự, mọi mặt... quyền lực của nước, của ngân hàng, của các công ty lớn, của các trào lưu xã hội, văn hóa, truyền thông... ngày càng thêm đè nặng trên cuộc sống người Dân.

Người dân càng ngày càng trở nên đơn độc, nhỏ nhoi và bất lực trước những bộ máy quyền thế ngày một thêm to lớn, tinh xảo và bức hiếp.[13]

b. Phục hồi Quyền Làm Người Dân

Vấn đề hiện nay là cần phong trào phục hồi Quyền Làm Dân, thiết lập cơ chế giúp người Dân bộc lộ Sức Mạnh để buộc giới quyền lực luôn thể hiện Quyền Sống Cuộc Sống Thích Đáng và Quyền Sống Kết Đoàn của Con Người.

Mục tiêu là cải tổ cơ cấu để giúp người Dân luôn thể hiện Quyền Định Đoạt và Kiểm soát, bảo đảm nếp sống Dân Chủ.

Động lực là Niềm Hãnh Diện Làm Người nơi mỗi người, và thăng tiến Tình Nghĩa Làm Người trong đời sống xã hội.

Định chế Làng-Nước Việt Nam và sách lược Giữ Dân Giữ Nước ở Truyền kỳ Mỵ Châu, cũng như sách lược Cứu Dân Cứu Nước ở Truyền kỳ Phù Đổng, sẽ là nền tảng giúp Con Người thoát khỏi gọng kềm các thể chế hôm nay, và thể hiện thích đáng Quyền Sống Làm Người toàn vẹn, Quyền Làm Người Dân, một cách hữu hiệu.

*     *     *     *

8. KHÁC BIỆT GIỮA VIỆC LÀNG VIỆC NƯỚC

8.1 Phần Chủ Động

Cuộc sống khốn cùng của đảo hoang đã thay đổi từ khi Rồng An Tiêm được chim Tiên cho mấy hột giống. Nhưng chim chỉ bay ngang, mọi việc còn lại đều do An Tiêm đảm trách. Rồng An Tiêm giữ phần chủ động trong việc chăm sóc vun xới vườn dưa.

Đang khi đó, ở việc phát triển Nước của Truyền kỳ Chử Đồng, người chủ động là nàng Tiên Tiên Dung. Tiên Dung tới bờ sông, Tiên Dung ‘khám phá’ ra Chử Đồng, Tiên Dung là công chúa giàu sang, đem của cải mở phố xá nuôi dân.

Như vậy, trong Việc Làng Việc Nước, tuy cũng là Tiên cũng là Rồng, nhưng phần đặc trách và chủ động lại khác nhau.

Trong việc Phát Triển Nước, nàng Tiên Tiên Dung chủ động, có nghĩa là yếu tố tinh thần, truyền thống dân tộc và lòng dân với nước, là chính yếu, là động lực trong Việc Nước.

Ở Việc Làng, trong đời sống dân làng, tuy phải có sức sống Tinh thần chung của dân tộc, nhưng Rồng chủ động, tức là nhấn mạnh tới cuộc sống thực tế, tới tài trí, của cải, thiết thực.

Tiên, tinh thần, chủ động Việc Nước. Rồng, thực tại, chủ động Việc Làng.

*     *

8.2 Tầm Dấn Thân

Cuộc sống trên đảo hoang đã thay đổi từ khi được chim cho hột giống. An Tiêm chuyên chú vun xới để dần dần hột giống biến đảo hoang khô cằn thành vùng đất xanh tươi.

So sánh với Truyền kỳ Chử Đồng, Tiên Dung và Chử Đồng đã để trọn tâm huyết và cuộc đời vào việc phát triển Nước. Nàng bỏ cuộc sống cũ, đem tất cả của cải nâng cao mức sống người dân; chàng vẫy vùng thăng tiến và truyền dạy tài năng. Hai người cùng làm, cùng gắng sức, tận tâm tận lực.

Như vậy, Việc Làng và Việc Nước khác nhau ở tầm dấn thân hành động. Việc Nước đòi trọn vẹn cuộc sống, Việc Làng vừa đủ nhu cầu.

*     *

8.3 Độ Tài Trí

So sánh với bài học An Dân ở Truyền kỳ Tiết Liêu, việc An Tiêm chăm sóc và chờ hưởng hoa quả, lại cho thấy sự khác biệt giữa tầm độ vận dụng tài trí cần thiết.

Tiết Liêu đã phải làm bánh, tức là phải đem tài trí và sức lực mà cải tiến cho cuộc sống người dân ngày thêm no ấm vững ổn. An Tiêm chỉ chăm sóc rồi chờ hưởng kết quả.

Việc Nước cần trọn tài trí sức lực, Việc Làng nhẹ công và ít cần vận dụng tài trí.

*     *

8.4 Loại Nhu Yếu

Trong Việc Nước, Tổ Tiên dạy Tiết Liêu công tác chính yếu là lo về gạo, tức là về những nhu yếu căn bản của cuộc sống người dân.

Ở đây, Việc Làng, An Tiêm chỉ có được thêm loại dưa mới. Dưa cũng là loại phẩm vật hữu ích, nhưng không thiết yếu cho cuộc sống. Dưa chỉ làm cho đời thêm tươi mát, thêm ngọt ngào.

Việc Làng Việc Nước cũng khác biệt nhau về tầm đáp ứng các loại nhu yếu của cuộc sống Con Người. Việc Nước lo nhu yếu căn bản, Việc Làng góp phẩm vật hữu ích.

*     *

8.5 Hai Loại Công Tác Chính Trị

Như vậy, Việc Làng và Việc Nước khác nhau từ phần chủ động, tới mức dấn thân, độ tài trí, và cả loại nhu yếu.

Sự phân biệt nầy đã được thể hiện rõ ràng trong suốt dòng lịch sử dân tộc.

Từ thời xa xưa, ta luôn phân biệt hai loại công tác chính trị : công tác làng và công tác nước.

Người dân làng, bất cứ ai cũng có thể làm Việc Làng, bất cứ ai cũng có quyền can dự vào việc tổ chức, điều hành, bầu cử, quyết định của Làng.

Nhưng để đủ tầm vóc làm Việc Nước thì phải học hỏi thông thạo việc an dân và phải được thi tuyển để xác định khả năng, như ở Truyền kỳ Tiết Liêu. Thời xưa đi học là để giúp an dân thịnh nước, và vừa thi đậu là có thể lên ngựa ra trận dẹp giặc.

- Sự phân loại nầy là kiệt tác quan trọng không những đã giúp Tổ Tiên ta ngăn chận nạn chuyên chế thời xưa, mà còn giúp chính chúng ta giải quyết những tệ đoan của nạn dân chủ đấu thầu, với thủ đoạn phổ thông đầu phiếu mị dân hiện nay.[14]

*     *     *     *

9. TRUYỀN KỲ AN TIÊM và Một Số VẤN ĐỀ LIÊN QUAN

9.1 Điều kiện tiên quyết của Tự Do

Điều kiện tiên quyết của Tự Do là Tự Chủ. Muốn Tự do phải biết Tự Chủ.

Điều kiện tiên quyết của Tự Chủ là Tự Quyết, quyền và khả năng tự mình quyết định.

Điều kiện tiên quyết của Tự Quyết là Khả Năng Nhận Định và Ý Thức Trách Nhiệm.

Vì vậy, phải tùy Khả Năng Nhận Định và Ý Thức Trách Nhiệm của đương sự đối với từng vấn đề, mà xét định tầm độ của Tự Quyết, Tự Chủ, rồi Tự Do.

*     *

9.2 Người Dân Phương Tây với Tự do, Dân chủ

a. Người Dân phương Tây là nô lệ, nông nô

Cách sống của dân Việt Nam khác xa với tình cảnh người dân ở các xã hội phương Tây, thời xưa và cả hiện nay.

Với một số chừng mực, phong kiến phương Tây coi người dân là nô lệ. Dân không được ra khỏi vùng đất của lãnh chúa, không được có tài sản riêng, và phải tin theo giáo phái của lãnh chúa.

b. Chiêu bài Tự do, Bình đẳng, Dân chủ, Nhân quyền

Thời biểu dương chủ nghĩa Tự do Bình đẳng phương Tây, từ thế kỷ 18 dl, lại cũng là thời mà hầu hết mọi dân tộc trên thế giới bị chính những người hô hào Tự do Bình đẳng đó cướp đoạt, bóc lột, đàn áp, hành hạ, và tàn sát... thẳng tay nhất. Chính sách thực dân của họ cho tới nay vẫn chưa hết ảnh hưởng kinh hoàng.

Tuy nhiên, không chỉ các dân tộc xa lạ mới bị chủ nghĩa Tự do Bình đẳng phương Tây biến thành nô lệ. Chính dân chúng phương Tây cũng bị bọn hưởng đặc quyền, qua chiêu bài Tự do Bình đẳng, bóc lột đến ghê tởm. Nhìn lại cảnh sống dân chúng Châu Âu thế kỷ 19 mà rùng mình.

Chính sự bóc lột tàn ác của Tự do Bình đẳng phương Tây đã gây phản ứng sinh ra nhiều chủ nghĩa và phong trào, trong đó có Cộng sản... để rồi nhân loại lại càng khốn khổ hơn !

Sau hơn 200 năm cổ võ 'Tự do Dân chủ', nhiều hình thức kỳ thị chủng tộc và nô lệ vẫn là hiện thực ở nhiều nơi. Trên thực tế, chính sách ‘Nhân quyền’ hiện nay cũng chỉ là chiêu bài được áp dụng khi có lợi ích cho quốc gia cổ võ.

c. Nhóm đặc quyền

Dầu ở chế độ gọi là Dân chủ hiện nay, người dân cũng chỉ bầu phiếu theo hình thức. Tất cả mọi quyền khác, kể cả quyền tuyển chọn người đại diện đích thực, đều nằm trong tay những nhóm đặc quyền.

Các nhóm đặc quyền đặt ra luật, sửa đổi luật, và dùng mọi phương thức tuyên truyền, mị dân, để cho chính họ được vững thế và hưởng lợi nhiều nhất.[15]

Còn người dân thì... ![16]

*     *

9.3 Vấn đề Phổ Thông Đầu Phiếu

a. Vượt khỏi Tầm tay người Dân

Các nước phương Tây hiện nay luôn ca tụng và phổ biến phương thức Phổ Thông Đầu Phiếu.

Thế nhưng, Phổ Thông Đầu Phiếu là gì, khi mà sinh hoạt chính trị bị cướp ra khỏi tầm hiểu biết của người dân ? Người dân được hưởng gì, khi mà Phổ Thông Đầu Phiếu trở thành phương tiện tranh đoạt đặc quyền của những người chủ trương mưu mô thủ đoạn và mạnh được yếu thua ?[17]

Người dân chọn lựa được gì, khi mà khu vực bầu phiếu luôn được phân chia theo tiêu chuẩn lợi ích cho đảng cầm quyền ?

Dân bầu người đại diện mình, nhưng đại đa số cử tri không thể hiểu biết mục tiêu thực sự của ứng cử viên.

Dân biểu đại diện dân, để tranh đấu cho nguyện vọng người dân, nhưng lại không được quyền phát biểu và biểu quyết trái với đường lối của đảng !

Dân biểu thay mặt dân, nhưng từ ngày đắc cử, hắn không còn là ‘người dân’ bình thường, hắn đương nhiên gia nhập vào nhóm đặc quyền, và hưởng nhiều đặc ân đặc lợi suốt đời.

Khi vận động, các đảng quảng cáo và hứa hẹn nhiều chương trình cải tiến, nhưng không gì bảo đảm họ sẽ thực thi.

Gần ngày bầu cử, lá phiếu được vận động bằng những đặc ân tạm bợ, những hứa hẹn mị dân, lật lọng. Khi đắc cử, đảng nào cũng có ngàn cớ để không giữ lời hứa.

Khi bầu cử, những hình thức gian lận bằng phiếu bầu giả, sửa đổi máy đếm phiếu, diễn ra trắng trơn, với sự đồng lõa của tư pháp, lập pháp.[18]

Người dân sẽ thực sự được gì ?...

Tất cả đều hằn vết của một phương thức mất nền tảng, của một chế độ khuyến khuyết, suy thoái.[19]

b. Cơ chế đoản hạn

Nhiệm kỳ Quốc trưởng hiện nay, thường từ 4 tới 6 năm, chỉ thích hợp cho việc điều hành những công tác thông thường, và những chương trình ngắn hạn.

Cần thêm cơ chế thực hiện lợi ích lâu dài và hệ trọng cho Dân tộc, cho Nhân loại... như chống ngoại xâm, điều hành cuộc chiến kéo dài, chận đứng những thế lực, cải tổ những cơ chế đang áp đảo con người, đang áp đảo xã hội... ở mọi phương diện.

*     *     *     *

10. TÓM LƯỢC VÀ SƠ ĐỒ

10.1 Tóm Lược

LÀM VIỆC LÀNG - Truyền kỳ AN TIÊM - Quyền Làm Người Dân

1. DẪN NHẬP

2. TRUYỀN KỲ AN TIÊM

3. Người Dân VIỆC LÀNG

3.1 Người Dân

   a. Con nuôi của Vua Hùng

   b. Con dân : mọi người dân

3.2 Quan Niệm Làng Thôn Việt Nam

   a. Ra đảo hoang : tự lực tự túc

   b. Do dân, dân chủ : Dân toàn quyền trong làng

4. CÔNG TÁC VIỆC LÀNG

4.1 Rồng Khai Phá.

   a. An Tiêm ra đảo hoang : khai hoang lập làng

   b. Đảo vẫn khô cằn : cuộc sống khốn đốn

4.2 Tiên Đem Mầm Sống

   a. Chim lạ bay tới : chim Tiên, tinh thần, truyền thống Dân tộc

   b. Cho hột giống : An Tiêm đón nhận mầm sống của Nước. Có Tiên, sự sống khởi đầu

   c. Nền tảng Tương quan Làng-Nước

4.3 An Tiêm chăm sóc : cần cù thực hiện

4.4 Cây sinh hoa kết quả thơm ngon : hưởng nhận Thành quả

4.5 Làm Việc Làng : 1. Gắng sức Khai phá, 2. Đón nhận Mầm sống, 3. Cần cù Thực hiện, 4. Hưởng nhận Thành quả

4.6 Việc Làng và Cuộc Sống Con Người : sống 4 Sức sống

4.7 Việc Làng trong Văn hóa Việt Nam

   a. Trọn Vẹn Tiên Rồng : trọn vẹn vật chất và tinh thần, mới thực sự giúp ích cho con người

   b. Tiên Nào Rồng Nấy, song hiệp

5. ĐẶC TÍNH DÂN LÀNG

5.1 An Tiêm thả dưa xuống biển : Chung Hưởng Lợi Ích

5.2 Được dưa, dân tìm tới đảo : Tự Ý Qui Tụ

5.3 Thành làng thôn : công dụng và lợi ích của làng : Chung Nhau Phát Triển

5.4 An Tiêm gởi dưa về dâng vua : Đóng Góp Cho Nước

5.5 Dưa hấu thành lễ vật : sống thực Bài học Làm Dân

5.6 Làm Việc Làng và Cuộc sống Con Người : sống 4 Sức sống

6. LIÊN HỆ LÀNG VÀ NƯỚC VIỆT NAM

6.1 Làng có Nếp sống biệt lập với Nước : Hương ước riêng

6.2 Làng Đại diện Dân : chính quyền không trực tiếp trên từng người dân

6.3 Làng Phát triển Nước : đóng góp đặc thù

6.4 Làng là Đơn vị nền tảng của Cơ cấu Chính trị Việt Nam : khác biệt

7. CHỨC NĂNG CỦA LÀNG VIỆT NAM

7.1 Làng thể hiện Quyền sống Cuộc Sống Thích Đáng : thể hiện cuộc sống theo ý mình

7.2 Làng thể hiện Quyền Sống Kết Đoàn : Làng là tường che, sức mạnh

7.3 Làng thể hiện Quyền Làm Người toàn vẹn : làm Tiên Rồng Song Hiệp và làm Anh Em Một Bọc. Làng là Đơn vị thể hiện Quyền Làm Người Dân

7.4 Làng thể hiện Quyền sống Dân Chủ Đích thực : thể hiện Quyền Định Đoạt và Kiểm Soát

   a. Tầm Nhìn và Tiếng Nói người Dân

   b. Tầm vóc thích đáng của Làng

7.5 Định chế Làng-Nước với hiện trạng

   a. Người Dân và Quyền Lực

   b. Phục hồi Quyền Làm Người Dân : mục tiêu, động lực, mẫu mực, sách lược...

8. KHÁC BIỆT GIỮA VIỆC LÀNG VIỆC NƯỚC

8.1 Phần Chủ Động : Tiên chủ động Việc Nước, Rồng chủ động Việc Làng

8.2 Tầm Dấn Thân : Việc Nước đòi dấn thân trọn vẹn, Việc làng vừa đủ nhu cầu

8.3 Độ Tài Trí : Việc Nước : trọn tài sức, Việc Làng : nhẹ công

8.4 Loại Nhu Yếu : Việc Nước lo nhu yếu căn bản, Việc Làng góp phẩm vật hữu ích

8.5 Hai Loại Công Tác Chính Trị : Việc Làng : mọi người có thể tham gia. Việc Nước : phải thông thạo việc an dân. - Kiệt tác của Nếp sống Việt Nam

9. TRUYỀN KỲ AN TIÊM và Một số VẤN ĐỀ LIÊN QUAN

9.1 Điều kiện tiên quyết của Tự Do : Tự chủ, Tự quyết, Nhận định, Ý thức trách nhiệm

9.2 Người Dân Phương Tây với Tự do, Dân chủ

   a. Người dân phương Tây là nô lệ, nông nô : xưa và nay

   b. Chiêu bài Tự do, Bình đẳng, Dân chủ, Nhân quyền : cướp đoạt, bóc lột, tàn sát...

   c. Nhóm đặc quyền hiện nay : đặt luật, sửa luật, tuyên truyền, mị dân

9.3 Vấn đề Phổ Thông Đầu Phiếu

   a. Vượt khỏi Tầm tay người Dân : chính trị tranh đoạt, mị dân, lật lọng...

   b. Cơ chế đoản hạn : cần dài hạn

*     *

10.2 Sơ đồ TÓM LƯỢC Truyền kỳ AN TIÊM - LÀM VIỆC LÀNG - Quyền Làm Người Dân



11.GHI CHÚ

[1] Về Thời Hùng, đọc Lược Sử 7000 Năm Tộc Việt, tr 72 : 4.2.

[2] Đọc 204. Sống Bình Đẳng - Truyền Kỳ Chử Đồng205. Làm Việc Nước - Truyền Kỳ Tiết Liêu

[3] Khác với nếp sống Trung Hoa và phương Tây.

[4] Khác với các văn hóa và chế độ gốc du mục, Tây cũng như Đông, xưa cũng như nay.

[5] Liên hệ nầy nhắc nhớ Công tác của Người Làm Việc Nước là lo phát triển Cuộc sống vừa Vật chất vừa Tinh thần của Người Dân. Đọc 205. Làm Việc Nước - Truyền Kỳ Tiết Liêu, các đoạn 6.3-6.6.

[6] Với người dân phương Tây, tự do cư trú và tự do sinh sống là những quyền mới được công nhận gần đây. Dầu vậy, Cộng sản, Quốc xã, Phát xít, các chế độ độc tài... vẫn không thực thi.

[7] Đây là Truyền kỳ, là biểu tượng văn hóa, là bài học, không phải nguồn gốc việc dưa hấu xuất hiện ở nước ta

[8] Làng còn có nghĩa là những Cộng Đoàn, nhóm, có chung một nghề hoặc cùng một mục tiêu chung, một hoàn cảnh chung. Phổ thông nhất là các Làng nghề. Và hiện nay, Làng Việt Nam ở hải ngoại.

[9] Đang khi đó, Gia đình là đơn vị nền tảng của Xã hội. Đọc 207. Cuộc Sống Gia Đình - Truyền Kỳ Vọng Phu, đoạn 8.2.

Sau Việt Nam mấy ngàn năm, cơ chế Hiệp Chúng Quốc của Hoa Kỳ, từ năm 1774, cũng có những nét đại cương tương đồng.

[10] Đọc 202. Cuộc Sống Con Người và Cuộc Sống Xã Hội - Truyền Kỳ Tiên Rồng, phần 7, và các đoạn 9.3-9.6.

[11] Thể chế nầy xa lạ với lịch sử của nhiều dân tộc, Tây cũng như Đông. - Thời gần đây, một số thể chế cũng thành lập nghiệp đoàn, công đoàn. Nhưng vì thiếu nền tảng vững chắc, nên đã dễ dàng bị giới quyền lực khống chế.

[12] Về 4 Sức sống, đọc 225. Bốn Sức Sống Con Người qua Bộ Truyền Kỳ và Bốn Học Thuyết Việt Nam.

[13] Cần phân biệt nền tảng xã hội, chính trị, với phương tiện kinh tế, kỹ thuật. Không để phương tiện, tiện nghi... lấn áp và hủy hoại cuộc sống đích thực Con Người. Mọi sự phải thích ứng để tăng trưởng Con Người toàn diện.

[14] Đọc thêm 206. Làm Việc  Làng - Truyền Kỳ An Tiêm, đoạn 8.3.

[15] Về Nhóm Đặc Quyền, đọc 204. Sống Bình Đẳng - Truyền Kỳ Chử Đồng, đoạn 7.1.

[26] Về người dân Trung Hoa, đọc Lược Sử 7000 Năm Tộc Việt, tr 328 : 16.4.1 và tr 331 : 16.5.3.

[17] Quan niệm chính trị Machiavellianism.

[18] Không chỉ ở các nước 'chậm tiến', mà còn trắng trợn trong cuộc bầu Tổng thống Mỹ năm 2020.

[19] Nền tảng của chế độ Dân chủ được đặt trên sự lương thiện, đạo đức, của Con người và của Xã hội. Ngày nay, đã bị các thế lực tài phiệt (chủ nghĩa Tư bản!) và các trào lưu khuynh tả hủy hoại.


 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét